Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Giới Trí Thức Ngày Nay Nói Gì Về Hình Ảnh Đức Phật

01/01/201109:03(Xem: 7556)
22. Giới Trí Thức Ngày Nay Nói Gì Về Hình Ảnh Đức Phật

GIỚI TRÍ THỨC NGÀY NAY NÓI GÌ VỀ 

HÌNH ẢNH ÐỨC PHẬT

Pandit Nehru, cựu thủ tướng Ấn Ðộ, nhận xét về hình ảnh Ðức Phật như sau:

Ðôi mắt Ngài nhắm lại, nhưng có một sức mạnh tinh thần vượt ra ngoài và một nguồn năng lượng tràn khắp thân thể của Ngài. Mặc dù nhiều thời đại trôi qua, nhưng dường như Ðức Phật không cách xa chúng ta tí nào. Giọng nói của Ngài thi thầm trong tai chúng ta và bảo chúng ta không nên chạy trốn những sự xung đột trong cuộc sống, chúng ta nên nhắm mắt định tâm và giáp mặt chúng, và nhìn cuộc đời bằng đôi mắt trìu mến và xem đời như là cơ hội vĩ đại cho sự phát triển và thăng hoa”. Ông cũng nói rằng: “Khi tôi ở trong nhà giam, tôi thường nghĩ về hình ảnh của Ngài và đó là nguồn cảm hứng vô tận đối với tôi”.

Trong suốt đệ nhị Thế chiến, tướng Ian Hamilton thấy một tượng Phật bị hủy hoại trong một ngôi chùa tại Miến Ðiện. Ông gởi tượng Phật này cho Winston Churchill, người sau này làm thủ tướng Anh Quốc, với bức thư như sau:

Khi bạn ở trạng thái lo âu sợ sệt, hãy chiêm ngưỡng thái độ trầm lặng thanh này và hãy mỉm cười với những lo âu sợ sệt của bạn”.

Count Keyserling, một triết gia người Ðức, phát biểu: “Trên đời này có cái gì đẹp hơn và đáng tôn kính hơn hình ảnh của Ðức Phật. Ðó là một sự hiện thân hoàn hảo nhất về mặt tinh thần trong thế giới phiền toái này”.

Một học giả cũng nói rằng:

Những hình ảnh Ðức Phật mà ta nhìn thấy là một biểu tượng tượng cho những phẩm chất. Chúng ta đảnh lễ và tôn kính Ðức Phật chỉ là một sự sùng kính mang tính chất biểu tượng tượng trưng cho sự vĩ đại của Ngài và niềm hạnh phúc mà chúng ta nhìn thấy qua lời dạy của Ngài. Hình ảnh thanh tịnh và vắng lặng của Ðức Phật là một nguồn khái niệm phổ quát về những cái đẹp lý tưởng. Hình ảnh Ðức Phật là một tài sản quý giá nhất của chung toàn nền văn hoá Á Châu. Nếu không có hình ảnh Ðức Phật thì Á Châu dẽ trở thành vô nghĩa và đó chỉ là một sự hiện hữu về mặt địa lý cho dù các quốc gia này có thịnh vượng như thế nào đi chăng nữa.”

Người Phật tử tôn kính hình tượng Ðức Phật như là một di tích của Bậc Ðạo Sư vĩ đại nhất, thông thái nhất, hoàn hảo nhất và từ bi nhất đã từng hiện hữu trên cõi đời này. Hình tượng Ðức Phật rất cần thiết để cho chúng ta hồi tưởng lại Ngài và những phẩm chất cao quý vĩ đại, khêu gợi nguồn cảm hứng cho hàng triệu con tim từ thế hệ này sang thế hệ khác trong tất cả các nền văn minh trên thế giới. Nó giúp cho họ tập trung tư tưởng vào Ðức Phật. Họ cảm thấy trong tâm tư của họ sự hiện hữu sống lại hình ảnh của bậc Ðạo sư để mà sự sùng bái của họ trở nên có ý nghĩa.

Là Phật tử, chúng ta nên có một tượng Phật bằng gỗ hay bằng thạch cao, hay tượng giấy thờ trong nhà. Việc thờ tượng Ðức Phật trong nhà không phải như là một sự trang trí để trưng bày mà là một đối tượng để chiêm ngưỡng và tôn kính. Hình ảnh thanh tịnh vắng lặng của Ðức Phật, một biểu tượng của lòng từ bi, thanh tịnh và hoàn hảo đóng vai trò như là một nguồn an ủi, khuyến khích và cảm hứng nhằm giúp chúng ta vượt qua bất kỳ những khó khăn, chướng ngại, lo âu mà chúng ta giáp mặt trong cuộc sống hằng ngày trên cõi đời phiền trược nhiễm ô này. Khi chúng ta tôn kính Ðức Phật, chúng ta sẽ được hưởng ân huệ rất lớn, nếu chúng ta thiền định trong một thời gian ngắn bằng cách chú tâm, quan sát những phẩm chất vĩ đaị và cao thượng của Ðức Phật, nếu chúng ta nghĩ về Bậc Ðạo sư chúng ta có thể làm cho chúng ta ngày càng hoàn hảo nhờ vào sự hướng dẫn của Ngài.

Do đó, không phải sự tự nhiên tôn kính này được biểu hiện trong một số tác phẩm nghệ thuật và điêu khắc thanh nhã và tuyệt hảo mà người ta đã từng được chứng kiến.

Một nhà văn nổi tiếng khác cũng đã trình bày trong ngôn ngữ triết lý của ông về chân ý nghĩa của việc đảnh lễ Ðức Phật như sau:

Chúng ta cần phải đảnh lễ Ðức Phật mặc dù lòng sùng kính đã được định hướng sẵn. Do đó, cầu mong cho tất cả chúng ta có được sức mạnh tươi tắn và xây dựng một đền thờ cho chính cuộc đời của chúng ta, và cho đến khi chúng “lau sạch” tâm, thì tâm của chúng ta xứng đáng được ghi nhớ hình ảnh của Ngài trong suốt điện thờ sâu kín của tình thương. Ðối với điện thờ đó, tất cả chúng ta cần dâng cúng những món quà không phải vì thèm muốn ánh sáng, những bông hoa tàn, vô thường trôi nổi, mà đó là vì hạt giống của tình thương, của sự dâng hiến và lòng vị tha đối với những người xung quanh chúng ta”.

Anatole France, trong nhật ký của ông, viết:

Vào ngày đầu thàng Năm năm 1980, tình cờ tôi đến thăm Viện bảo tàng ở Pari. Ở đó, đứng sừng sững trong vắng lặng và giản dị những vị thần của Á Châu, đôi mắt tôi bỗng nhiên chăm chú vào hình tượng Ðức Phật, người đã đưa tay cứu giúp những nhân loại, và mở rộng lòng từ bi đón nhận tất cả chúng sanh vào cõi đời của Ngài. Nếu có một Thượng đế nào đã từng hiện xuống cõi đời này, tôi cảm thấy ở đây chính là Ngài. Tôi cảm phục muốn quỳ xuống dưới chân Ngài và cầu nguyện Ngài như tôi đã từng cầu nguyện Thượng đế”.

Ouspenky, một triết gia Tây phương diễn tả những cảm xúc của ông về hình ảnh Ðức Phật mà ông đã chiêm ngưỡng tại Tích Lan. Ông ta bày tỏ: “Ðức Phật này là một tác phẩm nghệ thuật rất khác thường. Tôi không biết lấy những tác phẩm nghệ thuật nào để so sánh với hình ảnh Ðức Phật với đôi mắt ngọc bích lấp lánh. Có nghĩa là tôi biết không có một tác phẩm nào mà nó diễn ra trong chính nó quá hoàn hảo nhũng ý tưởng về tôn giáo như là như là gương mặt của tượng Phật này diễn tả ý tưởng của Phật giáo. Ðể hiểu được gương mặt này, cần phải tìm hiểu Ðạo Phật. Ông ta cũng bộc lộ tiếp: “Không cần phải đọc nhiều kinh sách Phật giáo hoặc đi dạo bộ cùng với các vị sư nghiên cứu các tôn các tôn giáo Ðông phương hay tham vấn với giới tu sĩ học thức. Mọi người nên đến đây, đứng chắp tay thành kính trước Ngài, và hãy chiêm ngưỡng đôi mắt ngọc bích long lanh xanh biết đang thể nhập vào cuộc sống của mình và mọi người sẽ hiểu Phật giáo là gì?”

Nghệ thuật Phật giáo trong việc tạo ra những hình ảnh và những bức tường minh họa những câu chuyện đạo đã khơi dậy nguồn cảm hứng và làm phong phú thêm nghệ thuật và văn hóa của hầu hết các quốc gia Aù châu hơn 2500 năm qua.

Những gì khiến cho thông điệp của Ðức Phật quá hấp dẫn lôi cuốn đối với nhân loại trong việc trao đổi sự hiểu biết của mình ? Có lẽ câu trả lời có thể được nhìn thấy trong sự thanh lịch, thanh thản của hình ảnh Ðức Phật. Không chỉ có màu sắc và đường nét mà con người bày tỏ niềm tin của họ đối với Ðức Phật và sự nhân từ trong những lời dạy của Ngài. Bàn tay của con người đã hun đúc nên những sản phẩm bằng kim loại, bằng đá, tượng Phậät là một trong những sáng tạo vĩ đại nhấât của con người thiên tài.

Nếu giới Phật tử thật sự ao ước được nhìn thấy hình ảnh của Ðức Phật trong tất cả sự huy hoàng và đẹp của hiện hữu lý tưởng của Ngài thì họ phải chuyển dịch những lời dạy của Ngài sang cuộc sống đời thường và thực hành theo lời dạy ấy. Chính nhờ thực hành giáo pháp của Ngài mà họ có thể gần gũi Ngàivới cảm nhận được một luồng hào quang trí tuệ tuyệt vời bất tận và lòng từ bi vô lượng vô biên của Ngài. Chỉ đơn giản tôn kính, sùng bái hìnhn ảnh Ðức Phật mà không thực hành giáo lý thậâm thâm vi diệu thì không phải là con đường để tìm sự giải thoát khổ đau.

Một cuộc đời quá đẹp, một trái tim quá trong sáng, thanh tịnh, môt cái tâm quá sâu sắc và giác ngộ, một cá tính quá gợi cảm và vị tha ; một cuộc sống hoàn hảo như thế , một trái tim từ bi như thế, một tâm thanh tịnh như thế, một cá tính thanh thản vắng lặng như thế thực sự là đáng được tôn kính, chiêm ngưỡng và đáng được dâng hiến cúng dường. Ðức Phật là một chúng sanh hoàn hảo nhất và là một bông hoa thơm ngát, mỹ miều đáng để cho đời chiêm ngưỡng.

Sir Edwin Arnold giải thích bản chất của Phật quả trong thi phẩm “Ánh Sáng Á Châu” như sau: 

Ðây hoa nở rộ trên cây nhân loại
Ðã bừng nở qua vô số năm
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9921)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29556)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15840)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 10091)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7443)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5432)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13340)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 13019)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17699)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 36089)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]