Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Nhu Cầu Thực Thi Thái Độ Khoan Dung Đối Với Thế Giới Ngày Nay

01/01/201108:46(Xem: 7005)
09. Nhu Cầu Thực Thi Thái Độ Khoan Dung Đối Với Thế Giới Ngày Nay

NHU CẦU THỰC THI THÁI ÐỘ KHOAN DUNG 

ÐỐI VỚI THẾ GIỚI NGÀY NAY

Con người của ngày nay đang sống trong trạng thái bất an, giao động, mệt mỏi chán với nỗi sợ hãi và thất vọng. Họ bị làm say sưa bởi những ham muốn để có được danh vọng, tiền của và quyền lực. Họ khao khát được mãn nguyện những thú vui dục lạc. Nhân loại đang trải qua hằng ngày trong nỗi sợ hãi, hoài nghi và bất an. Trong thời đại khủng hoảng và phiền nhiễu này, thật khó khăn cho con người cộng sinh một cách an bình với đồng loại của họ. Do đó, nhu cầu thực thi tinh thần khoan dung, độ lượng đối với thế giới ngày nay thật là cần thiết và quan trọng đến mức độ mà sự cộng sinh một cách hài hòa giữa con người trong thế giới ngày nay có khả quan.

Thế giới đã đẫm máu và chịu nhiều khổ đau do những bệnh tật của chủ nghĩa giáo điều và thái độ không khoan dung. Mảnh đất của nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay bị thấm ướt máu của con người tràn ngập trên án thờ của những cuộc tranh đấu chính trị đa dạng như là bầu trời của thiên niên kỷ trước bị bao phủ bởi khói của những vị thánh tử đạo tự thiêu. Cho dù trong lĩnh vực tôn giáo hay trong lĩnh vực chính trị, nhân loại cũng ý thức về một sứ mệnh mang lại cho nhân loại một lối sống và công kích lối sống của những người khác. Thật vậy, thái độ không khoan dung của những tâm hồn thích đấu tranh đã làm hư hỏng những danh thơm của các tôn giáo.

Chúng ta hãy nhìn lại thế kỷ hiện tại này-một thế kỷ tiến bộ cao về mọi mặt, một thế kỷ của sự máy móc và phát minh. Một lọat những phát minh mới của khoa học và kỹ thuật như máy điện thoại, xe điện, phi cơ, đài phát thanh, truyền hình, vi tính, tàu không gian, vệ tinh và những thiết bị điện v.v...đang làm cho nhân loại chói mắt. Song cũng trong thế kỷ này (thế kỷ 20) trẻ em của thế giới những con người đã phát hiện ra tất cả những phát minh này được xem như là tuyệt đối trong quá trình tiến triển, cũng tương tự như những con người đã tàn sát hàng triệu người khác bằng lưỡi lê hoặc là bằng súng đạn hay bằng lửa. Trong số tất cả những sự tiến bộ vĩ đại này thì nơi đâu là tinh thần khoan dung?

Con người của ngày nay chỉ quan tâm đến việc khám phá những vũ trụ bên ngoài không gian, nhưng anh ta hoàn toàn không thể sống hài hòa, hạnh phúc với con người đồng loại. Dần dần con người sẽ mạo phạm mặt trăng và những hành tinh khác.

Vì lợi ích vật chất, con người hiện đại đã vi phạm thiên nhiên. Những hoạt động tinh thần của họ quá lơ đãng với những thú vui của anh ta đến nỗi anh ta không thể nhận diện chân giá trị và mục đích của cuộc đời. Hành vi thái độ phi tự nhiên này của con người hiện đại là do kết quả của những quan niệm sai lầm về đời sống con người và mục đích tối hậu của nó. Ðó là nguyên nhân của hỗn độn, sợ hãi, bất an và không khoan dung trong thời đại chúng ta hiện nay.

Trên thực tế, tinh thần không khoan dung của thời đại hiện nay vẫn còn đang được các tôn giáo thực thi. Người ta chỉ nói đến tôn giáo và hứa khả mang lại con đường tắt đến thiên đàng, chứ họ không quan tâm đến việc thực hành tôn giáo đó. Nếu người đạo Gia tô sống theo Bài pháp ở tại Núi, nếu người Phật tử thực hành Bát Thánh Ðạo, nếu người Hồi giáo thực sự theo quan niệm Huynh đệ đại đồng và người Ấn giáo sống theo tinh thần nhất thể, thì chắc hẳn thế giới này sẽ có được nền hòa bình và hài hoà giữa nhân loại. Cho dù những lời dạy vô giá của những bậc đạo sư vĩ đại, con người ta vẫn chưa nhận ra được giá trị của sự khoan dung. Tinh thần không khoan dung được thực thi dựa trên danh nghĩa tôn giáo là một tinh thần bị lên án và rất xấu xa.

Lời khuyên của Ðức Phật là:

“Vui thay, chúng ta sống,
Không hận giữa hận thù;
Giữa những người thù hận,
Ta sống không hận thù.
Vui thay chúng ta sống,
Không bệnh giữa ốm đau;
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống không ốm đau”.
(PC 197-198)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9921)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29556)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15840)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 10091)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7443)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5432)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13340)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 13019)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17699)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 36089)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]