Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuẩn Bị cho Sự Gia Trì Năng Lực

28/02/201621:05(Xem: 3888)
Chuẩn Bị cho Sự Gia Trì Năng Lực
TỔNG QUAN 
VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

Chuẩn Bị cho Sự Gia Trì Năng Lực

 

Để tiến hành một buổi lễ gia trì năng lực, đòi hỏi một mạn-đà-la, là cung điện bất khả tư lường [không thể đo lường] hay một nơi thường trụ của bổn tôn. Có nhiều loại mạn-đà-la: mạn-đà-la được tạo nên bởi sự tập trung tinh thần, mạn-đà-la tranh vẽ, mạn-đà-la cát, và cũng trong Mật thừa Du-già Tối Thượng, mạn-đà-la thân thể được căn cứ trên thân thể của Đạo sư [guru, thiện xảo sư], và các mạn-đà-la của Bồ-đề tâm tương đối[1].

Trong tất cả các mạn-đà-la này, mạn-đà-la cát là chính yếu, bởi vì nó là mạn-đà-la duy nhất cho sự chuẩn bị của tất cả các nghi thức liên hệ đến sự dâng lễ lên đạo trường, dây phù hộ v.v… có thể được thực thi. Nó cũng phối hợp sự tiến hành những điệu múa lễ, bao gồm những thế uốn khác nhau của bàn tay và bước chân.

Có nhiều loại điệu múa lễ khác nhau. Một thứ được tiến hành khi dâng cúng đạo trường nơi mạn-đà-la được tạo dựng. Một thứ khác được biểu diễn sau khi hoàn thành mạn-đà-la, như một cúng dường đến những bổn tôn của mạn-đà-la. Thêm nữa, có một loại múa nghi lễ được gọi là Cham[2], mà nó liên hệ đến những hoạt động cho sự vượt thắng các chướng ngại.

Nhiều tự viện nhỏ chuyên môn trong việc biểu diễn những điệu múa nghi lễ này, nhưng chúng ta có thể hỏi sự thấu hiểu của họ về biểu tượng, và ý nghĩa đằng sau những điệu múa này. Hầu hết mọi người quan tâm sự biểu diễn của họ như một sự trình diễn, một loại hình sân khấu. Điều này là một phản ánh sự thật đáng buồn rằng các Mật thừa đang thoái hóa. Tôi đã từng đọc trong lịch sử Ấn Độ rằng một trong những nhân tố cho sự suy đồi của Mật thừa và giáo thuyết nhà Phật ở Ấn Độ là sự phát triển dư thừa trong các thực hành Mật thừa. Nếu một hành giả thiếu những nền tảng căn bản vốn là những điều kiện tiên quyết cho thực hành Mật thừa, thì những kỹ năng và thiền quán Mật thừa có thể chứng tỏ nguy hại hơn là lợi ích. Đấy là lý do tại sao sự thực hành Mật thừa được gọi là ‘bí mật’.

Chúng ta nên nhớ rõ trong tâm thức rằng ngay cả trong những tác phẩm mật điển, các thệ nguyện giải thoát cá nhân [tỳ kheo giới] được tán dương một cách cao độ. Mật thừa căn bản Thời Luân, vua cả tất cả Mật thừa Du-già Tối Thượng, đề cập rằng trong những vị Kim Cương Đạo Sư khác nhau tiến hành giảng dạy và nghi lễ, tu sĩ cụ túc giới là cao nhất, sa di là mức trung, và cư sĩ là thấp nhất. Hơn thế nữa, trong quá trình tiếp nhận một sự quán đảnh, có những loại thệ nguyện khác nhau được thực thi. Thệ nguyện Bồ-tát giới có thể được tiếp nhận trong sự hiện diện hình tượng của đức Phật, không có đạo sư trong hình thể con người. Những thệ nguyện giải thoát cá nhân và thệ nguyện Mật thừa trái lại phải được tiếp nhận từ một người sống trong hình thức một guru.

Nếu quý vị muốn thăng tiến thành công trong lộ trình Mật thừa, điều cần thiết là quý vị phải tiếp nhận sự truyền lực và gia trì của truyền thừa không gián đoạn bắt nguồn từ đức Phật Kim Cương Trì [Buddha Vajradhara] từ đạo sư của quý vị, nhằm kích khởi một khả năng tiềm ẩn trong tâm thức quý vị để hiện thực hóa trạng thái kết quả của Phật quả. Điều này được đạt đến bằng nghi lễ gia trì năng lực. Do thế, trong sự thực hành Mật thừa, đạo sư là rất quan trọng.

Vì đạo sư đóng một vai trò quan trọng như thế trong sự thực hành tantra, nhiều tác phẩm Mật thừa đã phác thảo những phẩm chất của một vị đạo sư mật tông.

Một người ban quán đảnh phải nên có đủ phẩm chất. Vậy nên trước khi thực thi điểm đạo, điều quan trọng là kiểm tra xem người đạo sư có các phẩm chất này không. Được cho rằng ngay cả nếu phải mất mười hai năm để xác định được xem người thầy có sở hữu các phẩm chất đúng đắn, thì quý vị cũng nên bỏ thì giờ mà làm việc đó.

Một đạo sư Kim Cương đủ phẩm hạnh là một người thủ hộ ba cánh cửa thân thể, lời nói, và tâm ý của vị ấy khỏi những hành vi tiêu cực, một người tế nhị và thông suốt trong ba vô lậu học -- giới, định, và tuệ. Thêm nữa, vị ấy phải sở hữu hai bộ, nội thể và ngoại vi, của mười nguyên lý[3]Sư Sự Pháp Ngũ Thập Tụng[4] diễn tả một người thiếu bi mẫn và hằn học, bị khống chế bởi những năng lực mạnh mẽ của dính mắc và thù hận và không có kiến thức của ba vô lậu học, khoe khoang chút ít kiến thức mà vị ấy có, thì không đủ phẩm chất là một vị đạo sư mật tông. Nhưng nếu như một đạo sư mật tông phải sở hữu những phẩm chất nào đấy, thì đệ tử cũng phải như vậy. Khuynh hướng hiện tại là việc tham dự một lễ quán đảnh bất kỳ được ban bởi bất cứ một vị đạo sư hay lạt-ma nào mà không có sự khảo sát trước, và tiếp nhận lễ khai tâm, rồi sau đó nói những điều chống lại vị thầy của mình là không tốt.

Nói về phần những vị đạo sư, điều cũng quan trọng là ban bố giáo huấn theo những cấu trúc tổng quát trong lộ trình Phật giáo và việc tiến hành theo khuôn khổ chung về lộ trình Phật giáo như là luật lệ mà qua đó quý vị xác định được sự toàn vẹn những giáo huấn của quý vị.

Điểm đáng nêu là vị thầy không nên cảm thấy kiêu ngạo trong mối quan hệ gần gũi với các đệ tử của mình, người thầy có quyền tối thượng và có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Có một châm ngôn của Tây Tạng rằng, ‘Mặc dù quý vị có thể đồng đẳng với những bổn tôn trong khuôn khổ của sự thực chứng, nhưng lối sống của quý vị nên phù hợp với phương cách của những người khác.’



[1] Tâm bồ-đề [bồ-đề tâm] hay tâm giác ngộ được phân làm hai loại 'bồ-đề tâm tương đối' và 'bồ-đề tâm tối thắng' [bồ-đề tâm tuyệt đối]. Bồ-đề tâm tương đối dẫn xuất ước muốn từ bi để thành tựu giác ngộ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh và để rèn luyện bằng cách phương tiện để đạt mụch đích đó. Bồ-đề tâm tối thắng là trí huệ trực tiếp vào bản chất vô ngã của các pháp.

Bồ-đề tâm tương đối còn được phân biệt giữa 'bồ-đề tâm nguyện' và 'bồ-đề tâm hành', được mô tả bởi ngài Tịch Thiên như là sư phân biệt giữa việc quyết định tiến hành [lý tưởng vị tha] và việc thật sự đang tiến hành.

"Bodhichitta". <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Bodhichitta>. Truy cập 02/09/2010.

[2] Vũ điệu Cham liên hệ đến một số bộ phái của Phật giáo Tây Tạng, người tham gia sẽ dùng đến các trang phục riêng biệt. Vũ điệu được đệm kèm bởi âm nhạc đánh lên bởi các tu sĩ sử dụng nhạc cụ truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Các vũ điệu thường có nội dung giới hạnh quan hệ đến từ bi cho chúng sinh và được diễn để mang lại công đức cho tất cả những ai nhận thức chúng.

"Cham Dance". Wikipedia. <http://en.wikipedia.org/wiki/Cham_Dance>. Truy cập 07/09/2010.

[3] Theo ngài Tsongkhapa, thì Kim Cương Tâm Yếu Trang Nghiêm Mật Điển (Vajra-hṛdayālaṃkāra-tantra) có nêu mười nguyên lý nội thể và ngoại vi. Các nguyên lý nội thể [mật] là: [1-2] hai nghi thức hồi chuyển [của hiểm nguy và ngăn trở], [3-4] [gia trì năng lực] trí huệ bí mật và siêu việt, [5] nghi thức cho việc phân chia những ai đang được khẻ chạm, [6] cúng dường bánh và [7] Kim Cương trì tụng, [8] nghi thức về hoàn tất mãnh liệt, [9] ban phước các hình tượng, và [10] hoàn tất mạn-đà-la. Các nguyên lý ngoại vi là: [1] mạn-đà-la vòng thiêng liêng, [2] định (thiền chỉ), [3] thủ ấn (uốn tay), [4] bái đứng, [5] bái ngồi, [6] tụng, [7] nghi thức (tịnh) hỏa, [8] cúng dường, [9] áp dụng vào hoạt động, và [10] đúc kết.Ngài Tsongkhapa cũng giải thích thêm về nhiều chi tiết về 10 nguyên lý nội thể và ngoại vi. Xem thêm chi tiết:

"The fulfillment of all hopes: guru devotion in Tibetan Buddhism". Tsoṅ-kha-pa. p41-47. Wisdom. 1999. ISBN 086171153x.

 

[4] Tên Phạn ngữ là gurupañcāśikā. Đây là bài luận thuyết gồm 50 đoạn kệ của ngài Mã Minh (Aśvaghoṣa) (thế kỷ 1-2) liên hệ chặt chẽ đến Mật thừa Du-già Tối Thượng nói về phương pháp tìm thiện xảo sư [guru] và về cách ứng xử trong quan hệ thầy trò. Từ đoạn kệ thứ 7 -9 nói về phẩm chất của vị thiện xảo sư và các đoạn kệ sau đó (10-48) nói về ứng xử của thầy trò.

"Lama Nga-chu-pa" (The Fifty Verses on Guru Devotion). Luận giải bởi Tsongkhapa. Trans by Sharpa Tulku et all. Library of Tibetan Works. 1975. PDF.

“50 Verses on Guru Devotion”. Aśvaghoṣa. View On Buddhism. <http://viewonbuddhism.org/resources/50_verses_guru_devotion.html>. Truy cập 23/08/2010.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2014(Xem: 14516)
CHÁNH PHÁP BỘ MỚI: Số 31, tháng 06.2014 Hình bìa của Nhiên An ChanhPhap 31 (06.14) ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ TA NGHĨ VỀ ĐẤT NƯỚC TA (thơ Mặc Phương Tử), trang 8 ¨ ĐẠO PHẬT VIỆT TK THỨ I VÀ THỜI KỲ BẮC THUỘC (HT. Thích Đức Nhuận), trang 9 ¨ BẢN LÊN TIẾNG V/V TRUNG QUỐC XÂM PHẠM LÃNH HẢI VIỆT NAM… (VP Điều Hợp GHPGVNTN Liên Châu), trang 13 ¨ PHÁP TỪ PHẬT ĐẢN PL. 2558 (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ VÌ HÒA BÌNH VÀ AN LẠC CHO THẾ GIỚI (HT. Thích Minh Tuyên), trang 16 ¨ HUẤN TỪ AN CƯ (TK. Thích Huyền Quang), trang 18
30/05/2014(Xem: 6693)
Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (1). Đây là những yếu tố vật chất và tinh thần được kết hợp lại mà có cái gọi là con người, là chúng sanh. Khi không gọi là ngũ uẩn mà gọi là danh và sắc thì ta cũng phải hiểu: Sắc là sắc thân vật lý, và danh là gọi chung của phần tâm và tâm sở gồm có thọ, tưởng, hành và thức.
29/05/2014(Xem: 5064)
Vô Ngã có phải là một vấn đề bế tắc của nhân sinh? Cái mà trước đây các bậc hiền triết, các nhà sáng lập tôn giáo, kể cả đức Phật muốn tìm. Đó là một cái chân ngã, cái ngã thật, tức là cái Tôi cái Ta không bị chi phối, không bị thay đổi theo không gian và thời gian. Nhắc đến Phật giáo, chúng ta thấy đạo Phật chủ trương Vô Ngã, thuyết minh về Vô Ngã, và Vô Ngã xem như là học thuyết nòng cốt của đạo Phật. Trong Tam Pháp Ấn, Vô Ngã là một trong ba ấn định đặc thù về chân lý Phật giáo: vô thường, khổ, vô ngã. Vì vậy, mọi hành động dính mắc ta đều có cảm giác rằng hành động đó còn ngã thì làm sao gọi là tu, làm sao giải thoát được?
28/05/2014(Xem: 8719)
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo hay Tin lành chỉ tin có một Thượng đế duy nhất thì gọi là nhất thần giáo. Trong khi đó, đạo Khổng hay đạo Lão tin vào nhiều đấng thần linh nên những đạo này được gọi là đa thần giáo. Ngược lại, đạo Phật không phải là nhất thần giáo, cũng chẳng là đa thần giáo mà cũng không phải là giáo điều chủ nghĩa tức là vị giáo chủ đưa ra bất cứ giáo điều gì cho dù đúng hay sai thì tín đồ bắt buộc răm rắp tuân theo.
26/04/2014(Xem: 13295)
Các tài liệu nghiên cứu cho biết chữ VẠN vốn không phải là văn tự, chữ viết (word), mà chỉ là ký hiệu (symbol). Nó xuất hiện rất sớm, có thể là từ thế kỷ thứ 8 trước công nguyên và đến thế kỷ thứ ba trước công nguyên mới được dùng trong kinh Phật. Nhưng ký hiệu này đã không thống nhất. Có chỗ viết theo mẫu (A), ngược chiều kim đồng hồ, có chỗ viết theo mẫu (B), thuận theo chiều kim đồng hồ, như hình vẽ trên. Từ đó có những lý luận cho rằng chữ VẠN của Phật giáo phải xoay hướng này thì đúng còn hướng kia thì sai.
26/04/2014(Xem: 7446)
Đây là vòng 12 nhân duyên. Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân thành quả (sở sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12 trùng thành (gặp nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với
23/04/2014(Xem: 5975)
“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.” Câu nói đó lập đi lập lại nhiều lần trong kinh Đại Bát Niết-bàn, cũng là chủ đề Phật tánh của kinh. Phẩm Bồ-tát Sư tử rống nói: “Sư tử rống là lời nói quyết định: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Như Lai thường trụ không biến đổi.” Sư tử tượng trưng Đức Phật, bậc tối thượng trong ba cõi. Rống là lời tuyên bố dũng mãnh của Trí huệ và Đại bi. Trí huệ vì soi thấy thật tánh của muôn loài là Phật tánh. Đại bi vì lời nói ấy bao trùm tất cả muôn loài. Phật tánh này là cảnh giới của chư Phật, là Đại Niết-bàn.
27/03/2014(Xem: 8913)
Ở đây, tôi đang đề cập đến bản chất tương đối của bạn mà trong đạo Phật thường nhắc tới. Bạn nghỉ rằng : “Bằng cách nào bạn mô tả được bản chất của tôi như vậy? Bản chất của tôi có nhiều khía cạnh khác biệt”. Đó có thể là ý tưởng của phương Tây, còn quan điểm của Phật giáo thì đơn giản hơn nhiều. Theo Phật giáo, bản chất của bạn chỉ có hai khía cạnh là tương đối và tuyệt đối.
25/03/2014(Xem: 10558)
AN CƯ là một trong các pháp chế trọng yếu trong đời sống tu hành của Tăng Đoàn Phật giáo. Chữ “cư” nghĩa là ở; chữ “an” nghĩa là yên, tức là, thân thì không đi ra khỏi chùa, tâm thì chuyên cần tu học, luôn giữ chánh niệm, không chạy theo trần cảnh bên ngoài, không để ý đến các chuyện thế sự. Vậy, “an cư” là ở yên một chỗ, chuyên cần tu tập, giữ cho thân tâm tĩnh lặng, thanh tịnh.
12/03/2014(Xem: 29552)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát Bậc thành công đức diệu Dũ lòng đại từ bi Nơi trong một thân tâm Hiện ra ngàn tay mắt
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]